Tìm kiếm tin tức

Chung nhan Tin Nhiem Mang

Liên kết website
BÁO CÁO CÔNG TÁC DÂN VẬN 2022
Ngày cập nhật 17/10/2023

 

ỦY BAN NHÂN DÂN

XÃ VINH HÀ

 

Số:790/BC-UBND

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

 


Vinh Hà, ngày 28 tháng 12 năm 2022

                                   

BÁO CÁO

Kết quả thực hiện quy chế dân chủ phương châm “dân biết, dân bàn,

dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” năm 2022

và phương hướng nhiệm năm 2023

 

 

I. ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH:

Vinh Hà là một xã ven đầm phá Tam Giang - Cầu Hai nằm về phía Đông Nam huyện Phú Vang, có tỉnh lộ 10C và 10D chạy qua, giao thông đi lại khá thuận tiện kể cả đường bộ và đường thuỷ, cách trung tâm huyện 13 Km, cách thành phố Huế 35km về hướng Tây Bắc. Nằm trong toạ độ địa lý 107047 - 107050 độ Kinh đông và 16020 - 16024 vỹ độ Bắc, địa giới hành chính của xã như sau:    

Với vị trí địa lý trên 3 mặt tiếp giáp mặt nước, chiều dài của xã 7 km, chiều rộng của xã 5 km, có diện tích đất tự nhiên là 2.941,86 ha. dân số: 2782 hộ, 11.376 khẩu;  địa giới hành chính được chia thành 5 thôn dân cư.

+ Hộ nghèo: 189 hộ, tỷ lệ 6,9%.

+ Hộ cận nghèo 201 hộ, đạt tỷ lệ 7,34%

* Công tác đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, tạo việc làm mới:

- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn 15 người.

- Sinh viên tốt nghiệp các trường TC, CĐ, ĐH 61 người

- Tạo việc làm mới 227.

- Xuất khẩu lao động 18 người.

Từ năm 2016 đến nay, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn của sự cố ô nhiễm môi trường biển và tình hình lũ lụt, dịch bệnh, nắng nóng kéo dài xảy ra, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, sự điều hành của Ủy ban nhân dân xã, sự phối hợp tuyên truyền, vận động và tổ chức các hoạt động của Mặt trận, đoàn thể với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở được mở rộng ở các cơ quan, ban, ngành, đã tạo sự đồng thuận của toàn xã hội. Kịp thời động viên, khích lệ cán bộ, công chức, người lao động và tầng lớp Nhân dân phát huy sức mạnh tổng hợp, đẩy mạnh triển khai các phong trào thi đua thực hiện các nhiệm vụ, góp phần đẩy nhanh thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn xã.

II. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, TRIỂN KHAI:

1. Công tác quán triệt, triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ.

Ngay sau khi pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn ban hành,

Thực hiện Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ và Thông tư số 01/2016/TT-BNV ngày 13/01/2016 của Bộ Trưởng Bộ Nội vụ hướng dẫn một số nội dung Nghị định số 04/2015/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 63 của Bộ Luật Lao động về thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tại nơi làm việc, UBND xã đã ban hành nhiều văn bản yêu cầu thủ trưởng các ban ngành, đoàn thể triển khai có hiệu quả các văn bản nêu trên.

Việc triển khai các văn bản pháp luật về dân chủ gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về tăng cường xây dựng chỉnh đốn đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị số 03-CT/TW; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

2. Công tác tuyên truyền, phổ biến việc thực hiện dân chủ trong cơ quan, đơn vị trên địa bàn toàn xã.

Chỉ đạo Tư pháp – hộ tịch  phổ biến giáo dục pháp luật chủ trì, phối hợp với các ban ngành liên quan  tuyên truyền, tăng cường phổ biến các quy định về thực hiện dân chủ thường xuyên phổ biến, quán triệt, tuyên truyền nội dung Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ và Thông tư số 01/2016/TT-BNV ngày 13/01/2016 của Bộ Trưởng Bộ Nội vụ thông qua các cuộc họp giao ban hàng tháng, hàng quý, sinh hoạt chi bộ. Chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác tuyên truyền, niêm yết các văn bản của Nhà nước về dân chủ cơ sở tại các đơn vị.

Nhìn chung, việc tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ được các ban ngành, đoàn thể thực hiện nghiêm túc, có nhiều đổi mới. Trong quá trình thực hiện các ban ngành đoàn thể tiếp tục có nhiều giải pháp tăng cường chỉ đạo việc quán triệt, triển khai thực hiện sát thực với từng việc nên đã làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của các đoàn thể và cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp Nhân dân về vai trò, vị trí, quyền và nghĩa vụ của mình trong thực hiện các quy chế dân chủ và phát huy quyền làm chủ của mình trong xây dựng và thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị.

3. Hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; việc triển khai các chương trình, kế hoạch hoạt động hàng năm của BCĐ; kiện toàn, phân công trách nhiệm thành viên BCĐ; kinh phí hoạt động của BCĐ; công tác phối hợp  của BCĐ với các cơ quan, đơn vị liên quan.

100% các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở và hoạt động đảm bảo đúng quy chế, mang lại hiệu quả rõ nét.

Thường xuyên tổ chức các hội nghị 6 tháng, năm để đánh giá tình hình hoạt động và triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở. Đảng ủy ban hành  các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước liên quan đến việc phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân, của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực. Hàng năm tiến hành kiểm tra, khảo sát đánh giá kết quả thực hiện QCDC ở cơ sở và kiểm điểm trách nhiệm của các thành viên Ban Chỉ đạo.

4. Vai trò, trách nhiệm và sự phối hợp của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội trong thực hiện QCDC ở cơ sở, trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền.

Công tác phối hợp giữa Đảng ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở được duy trì thường xuyên. Việc thực hiện dân chủ xã đi vào nề nếp; quy chế dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập được tăng cường, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong quản lý điều hành.

Đã nổ lực hơn trong công tác cải cách hành chính, quan tâm giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, tăng cường đối thoại với Nhân dân, sâu sát với dân, quan tâm việc tổ chức cho Nhân dân tham gia góp ý vào các vấn đề quan trọng, có tác động trực tiếp đến đời sống Nhân dân, hướng dẫn nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước, ban hành các nội quy, quy chế thực hiện công khai, dân chủ về chế độ chính sách của nhà nước liên quan đến lợi ích chính đáng của Nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát huy tốt vai trò trong xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ thông qua việc phối hợp thông tin kịp thời đến các tầng lớp Nhân dân về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự án, công trình đầu tư, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng…Tham gia công tác tiếp dân, rà soát hương ước, quy ước, giám sát hoạt động của chính quyền.

III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ:

1. Kết quả thực hiện dân chủ tại xã theo Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

UBND xã đã tổ chức rà soát và sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước của thôn và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.

a. Về các nội dung phải công khai cho dân biết:

Nhìn chung, UBND xã  thực hiện tốt các nội dung phải công khai cho dân biết theo quy định của Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về những chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước có liên quan trực tiếp với Nhân dân như: Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế; dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của xã; tiến độ thực hiện phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai; việc quản lý, sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư, tài trợ theo chương trình; các khoản huy động Nhân dân đóng góp; kết quả bình xét hộ nghèo; chủ trương, kế hoạch vay vốn cho Nhân dân để phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực, đã nêu cao vai trò đóng góp ý kiến của Nhân dân trong việc lựa chọn xây dựng nông thôn mới, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Việc công khai cho dân biết được các địa phương thực hiện bằng các hình thức như: tổ chức họp dân, niêm yết tại trụ sở hoặc thông báo tại các phiên họp Ủy ban nhân dân xã. Công tác tiếp dân và giải quyết kiến nghị, khiếu nại của công dân đã được đổi mới, góp phần giảm thiểu tình trạng khiếu nại kéo dài và vượt cấp. Tại trụ sở làm việc của Ủy ban nhân dân xã đều bố trí nơi tiếp công dân và xây dựng hộp thư góp ý. Thông qua việc công khai đã giúp cho Nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của chính quyền và tạo điều kiện cho Nhân dân tham gia trực tiếp giám sát hoạt động của chính quyền, xây dựng chính quyền cơ sở ngày càng trong sạch, vững mạnh

b. Những nội dung Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp:

Thực hiện Điều 10 của Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11, theo phương châm  “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, hầu hết những vấn đề đều được đưa ra để Nhân dân bàn và quyết định, luôn tạo được sự đồng thuận, hưởng ứng cao trong Nhân dân. UBND  xã đã chỉ đạo các thôn trên địa bàn thực hiện nghiêm túc việc tổ chức cho Nhân dân thảo luận, bàn bạc tập thể và thống nhất một số nội dung như: tham gia ý kiến và lấy phiếu tín nhiệm đối với những người ứng cử chức danh Trưởng thôn; quy trình công khai dân chủ trong việc xét cấp nhà tình nghĩa, nhà tình thương; công khai các hoạt động thu, chi các nguồn phí, lệ phí, các nguồn quỹ vận động Nhân dân trong các lĩnh vực; việc huy động sức dân để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, giao thông nông thôn, xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng ở khu dân cư; bầu Ban Thanh tra Nhân dân; các mức đóng góp từ dân.., từ đó đã phát huy tinh thần dân chủ trong Nhân dân. Thực hiện tốt cuộc vận động Nhân dân thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và đưa phong trào này trở thành cuộc vận động văn hóa lớn, sâu rộng, được mọi tầng lớp Nhân dân đồng tình hưởng ứng. Công tác quản lý Nhà nước về văn hóa và các dịch vụ văn hóa được tăng cường, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở khu dân cư; tích cực hưởng ứng vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa; xã hội hóa trong xây dựng đường giao thông nông thôn, đường điện chiếu sáng, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương cho hộ nghèo; thực hiện tốt cuộc vận động "Ngày vì người nghèo”. Nhân dân tự đóng góp xây dựng điện chiếu sáng trền trục đường chính của các thôn hơn khoản 1,5 tỷ đồng.

c. Những việc Nhân dân bàn, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định:

Trên cơ sở nội dung quy định tại Pháp lệnh về những việc Nhân dân bàn, biểu quyết để cấp có thẩm quyền quyết định, UBND xã đã tổ chức thực hiện đạt kết quả tốt như việc lấy ý kiến của Nhân dân tham gia bàn bạc, góp ý, sửa đổi, bổ sung hương ước, quy ước của thôn; việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn; bầu, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng đã được cơ sở thực hiện từng bước đi vào nề nếp, phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện đúng theo hướng dẫn tại Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Hàng năm, UBND xã  đã quan tâm đến việc bổ sung, sửa đổi hương ước, quy ước của thôn theo tinh thần dân chủ và phù hợp với tình hình thực tế, giảm được một số tập tục trong Nhân dân, việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, mừng thọ... đã giảm bớt lãng phí, hình thành tập quán, nếp sống mới tiến bộ, lành mạnh và văn minh hơn. Hiện nay trên địa bàn xã không còn tập tục đám tang còn tổ chức ăn uống như trước đây.

d. Những nội dung Nhân dân bàn và biểu quyết trước khi có cấp thẩm quyền quyết định:

Thực hiện Điều 19 của Pháp lệnh dân chủ, Chính quyền cấp xã đã thực hiện nghiêm túc việc lấy ý kiến của Nhân dân vào dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; phương án chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất và phương án phát triển ngành nghề của địa phương; dự thảo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết; việc quản lý, sử dụng quỹ đất; dự thảo kế hoạch triển khai các chương trình, dự án trên địa bàn; chủ trương, phương án đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng...

đ. Những nội dung Nhân dân giám sát, kiểm tra:

Đối với những việc Nhân dân giám sát, kiểm tra được chỉ đạo khá chặt chẽ. UBND các xã đã tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân giám sát các vấn đề có liên quan trực tiếp đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình công cộng do Nhân dân đóng góp; về công tác dạy nghề và việc làm cho lao động nông thôn; việc thực hiện chính sách pháp luật về giảm nghèo; chính sách hỗ trợ và vay vốn cho hộ nghèo; thực hiện các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới.

e. Kết quả thực hiện Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT- CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thi hành Điều 11, Điều 16, Điều 22 và Điều 26 của Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11

Thông qua các hình thức như lấy ý kiến của Nhân dân tham gia bàn bạc, đóng góp sửa chữa, bổ sung và biểu quyết vào dự thảo hương ước, quy ước của thôn; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Ban Thanh tra Nhân dân, ban Giám sát đầu tư cộng đồng đã được thực hiện nề nếp, phát huy cao tính dân chủ, đảm bảo thực hiện đúng theo hướng dẫn tại Nghị quyết liên tịch số 09/2008/NQLT-CP-UBTWMTTQVN ngày 17/4/2008 của Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các quy định liên quan.

Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn đã phối hợp với Trưởng thôn để tổ chức hội nghị để Nhân dân tham gia góp ý kiến vào bản tự kiểm điểm của những người được đưa ra lấy phiếu tín nhiệm trước khi Ban Thường trực UBMTTQVN xã tổ chức hội nghị lấy phiếu tín nhiệm. Điều này đã phát huy quyền dân chủ trực tiếp của Nhân dân trên lĩnh vực chính trị, được Nhân dân đồng tình ủng hộ, với nhiều ý kiến đóng góp xây dựng, chân tình, thẳng thắn của Nhân dân và Mặt trận cơ sở đã giúp cho Đảng ủy, UBND nắm rõ hơn, cụ thể hơn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực quản lý, điều hành và trách nhiệm đối với Nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động; đồng thời giúp cho cán bộ, công chức tự nhìn nhận đánh giá đúng hơn về bản thân mình để khắc phục, sửa chữa và xây dựng phong cách, lề lối làm việc thật sự gần dân, sát dân, phục vụ Nhân dân tốt hơn.

g. Công tác phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã trong việc thi hành pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11

Ủy ban nhân dân các xã luôn phối hợp với UBMTTQVN và các đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và Nhân dân nâng cao ý thức thực hiện Pháp luật về dân chủ; UBMTTQVN và các đoàn thể chính trị xã hội thường xuyên tuyên truyền, vận động và xây dựng lực lượng nòng cốt trong tổ chức pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã có nhiều hoạt động tích cực, phát huy dân chủ, tham gia công tác xây dựng đảng, chính quyền. Vai trò giám sát của Mặt trận và các đoàn thể được tăng cường, kịp thời nắm bắt dư luận quần chúng, phản ánh đề xuất giải quyết bức xúc của Nhân dân trên địa bàn.

Tham gia giám sát theo chức năng, nhiệm vụ: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị luôn phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong việc giám sát xây dựng đảng, chính quyền được thể hiện qua các cuộc tiếp xúc cử tri với Đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp; giám sát việc quản lý điều hành của chính quyền trong việc thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội có liên quan trực tiếp với Nhân dân như: giám sát việc huy động tiền Nhân dân đóng góp xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn điện chiếu sáng... nhờ vậy chất lượng các công trình do nhà nước và Nhân dân cùng làm ngày càng nâng lên, qua đó quyền làm chủ của Nhân dân ngày càng được phát huy mạnh mẽ.

2. Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.

Việc thực hiện Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hầu hết các cơ quan, đơn vị đã quán triệt nghiêm túc và tổ chức thực hiện tốt các nội dung của Nghị định; đồng thời cụ thể hóa nghị định để xây dựng các nội quy, quy chế phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của từng cơ quan để thực hiện có hiệu quả.

Hàng năm, 100% thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đã phối hợp với công đoàn tổ chức hội nghị cán bộ, công chức, viên chức và người lao động để tập thể thảo luận, bàn bạc, tham gia quyết định các vấn đề liên quan đến chế độ, chính sách, các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và các biện pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.

Việc thực hiện nghiêm túc Quy chế dân chủ cơ sở đã làm chuyển biến tích cực trong hoạt động của các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp; cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan, đơn vị được trực tiếp bàn bạc, thống nhất và cùng tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, đồng thời việc phát huy dân chủ cũng đã tạo được sự đoàn kết, sự đồng thuận cao trong nội bộ các cơ quan, đơn vị góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

1. Thuận lợi.

Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã phát huy sức mạnh tổng hợp trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và Nhân dân, góp phần đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ủy, UBND phát huy tính tiên phong, gương mẫu và từng bước đổi mới nội dung, lề lối làm việc của cán bộ, công chức và người lao động, góp phần quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn tình trạng tiêu cực; tăng cường sự đoàn kết, đồng thuận trong cán bộ, công chức, người lao động và cộng đồng dân cư; tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của cán bộ, công chức cũng như trong cả hệ thống chính trị, góp phần xây dựng đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Việc thực hiện quy chế dân chủ đã gắn với việc thực hiện nghị quyết đại hội Đảng nhiệm kỳ 2021 - 2025, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cải cách thủ tục hành chính, “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, các phong trào thi đua yêu nước, bảo vệ an ninh trật tự... được sự đồng thuận nên đã đạt được kết quả cao; từng bước khơi dậy ý thức của cán bộ, công chức, người lao động trong tham gia xây dựng và thực hiện các quy định, quy chế cũng như thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị; nâng cao tinh thần dân chủ của Nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước; đảm bảo quyền lợi hợp pháp đối với người lao động.

Quá trình xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ đã gắn kết chặt chẽ với các tổ chức đảng, đoàn thể động viên cán bộ, công chức, người lao động và các tầng lớp Nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, thực hiện tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, quan tâm các lợi ích chính đáng của Nhân dân đã coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, kiểm điểm rút kinh nghiệm, khắc phục hạn chế, yếu kém trong chỉ đạo; biểu dương, khen thưởng kịp thời, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến.

2. Khó khăn.

Bên cạnh những kết quả đạt, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cả 3 loại hình trên địa bàn xã vẫn còn bộc lộ những khó khăn nhất định:

Đối với việc thực hiện dân chủ ở xã: Mặt trận và các tổ chức đoàn thể chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc phối hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở. Các tổ chức đoàn thể chưa phát huy tốt vai trò dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của Nhân dân trong bàn bạc, quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội có liên quan. Chưa kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo thực hiện. Hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân còn hình thức, chưa hiệu quả.

Đối với việc thực hiện dân chủ còn mang tính hình thức. Công tác cải cách thủ tục hành chính đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn tình trạng chậm trễ trong giải quyết một số thủ tục hành chính. Tổ chức đoàn thể chỉ mới quan tâm chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho đoàn viên, hội viên mà chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình trong việc giám sát, phản biện của đoàn viên, hội viên và người lao động. Hoạt động của Ban Thanh tra Nhân dân còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao.

V. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM TRONG THỜI GIAN TỚI:

1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của người đứng đầu trong việc tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ, nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân đối với việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

2. Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện các quy ước, hương ước theo Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở xã. Đẩy mạnh xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các loại hình doanh nghiệp, đơn vị hành chính, sự nghiệp tại Nghị định số 06/2013/NĐ-CP ngày 16/9/2013; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ.

3. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính của xã giai đoạn 2015 – 2020, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; Căn cứ Chỉ thị số 26/CT-UBND ngày 25 tháng 12 năm 2020 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế  về tăng kỷ, kỷ luật hành chính; nâng cao hiệu quả, hiệu lục hoạt động bộ máy quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh;

Căn cứ Chỉ thị số 18/CT-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2019 của UBND huyện Phú Vang về việc “đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, chẩn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính, cải cách công vụ, công chức, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ Chí Minh”;

4. Tăng cường công tác nắm tình hình tư tưởng và tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, vận động Nhân dân, đoàn viên hội viên thực hiện tốt quy chế, hương ước, quy ước. Nâng cao vai trò của Ban Thanh tra Nhân dân nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ở cơ sở.

VI. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:

1. Đối với Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ:

Thứ nhất, trong thực tế hiện nay, các cơ quan hành chính nhà nước đang làm việc theo chế độ thủ trưởng. Thực hiện hoạt động quản lý theo chế độ thủ trưởng nhằm đảm bảo tính chịu trách nhiệm của cá nhân người ra quyết định, tính quyết đoán, kịp thời, thống nhất của hoạt động quản lý. Nhưng nguyên tắc hoạt động này cũng dễ dẫn đến sự chuyên quyền, độc đoán làm hạn chế quyền dân chủ của cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, cần phải có hướng dẫn cụ thể để thực hiện hài hòa giữa đảm bảo quyền dân chủ của cán bộ, công chức, viên chức với nguyên tắc làm việc theo chế độ thủ trưởng.

Thứ hai, để hạn chế tình trạng thực hiện dân chủ một cách hình thức và bảo đảm các quyền dân chủ của cán bộ, công chức, viên chức và người dân, cần cụ thể hóa căn cứ, chế tài để xử lý những tập thể, cá nhân lợi dụng dân chủ gây mất ổn định an ninh chính trị địa phương; không công khai các chế độ, chính sách đối với người dân nhằm trục lợi cá nhân… Bên cạnh đó, cần xây dựng tiêu chí để có căn cứ khen thưởng các tập thể, cá nhân thực hiện tốt quy chế dân chủ, giúp hạn chế các biểu hiện tiêu cực, nhũng nhiễu trong các cơ quan quản lý nhà nước.

2. Đối với Nghị định số 60/2013/NĐ-CP ngày 19/6/2013 của Chính phủ

Đối với các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, có tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức công đoàn cơ sở đã thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ các quy định của pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện đầy đủ chế độ, chính sách đối với người lao động, thì không cần thiết phải thực hiện định kỳ 03 tháng đối thoại 01 lần mà nên quy định 6 tháng tổ chức đối thoại 01 lần. Đối với các doanh nghiệp ngoài Nhà nước có quy mô nhỏ (các hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân thuê mướn, sử dụng lao động làm việc theo hợp đồng lao động) không có tổ chức Đảng, không có tổ chức công đoàn đề nghị hướng dẫn cụ thể hơn việc thực hiện dân chủ tại nơi làm việc ở đối với loại hình tổ chức này.

Việc thực hiện quy chế dân chủ trong doanh nghiệp vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của doanh nghiệp, vì vậy đề nghị đưa các nội dung thực hiện quy chế dân chủ tại doanh nghiệp vào Luật Doanh nghiệp theo hướng bổ sung các chế tài đảm bảo chủ doanh nghiệp phải thực hiện, cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở để giám sát, đưa việc thực hiện dân chủ của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài Nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.

3. Đối với thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn theo quy định tại Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11

Các nội dung yêu cầu công khai để dân biết, dân bàn, dân quyết định theo quy định rất nhiều, thực tiễn ở cơ sở triển khai thực hiện vẫn còn mang tính hình thức, chiếu lệ. Đề nghị bổ sung các chế tài đối với những trường hợp cụ thể, đặc biệt các chương trình, dự án liên quan đến phát triển của địa phương, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người dân bắt buộc phải lấy ý kiến của người dân, tỷ lệ người dân hưởng ứng là bao nhiêu, trước khi triển khai thực hiện.

Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, UBND xã báo cáo Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở cho ý kiến chỉ đạo./.

 

Nơi nhận:

- BTV huyện ủy (b/c);

- BCĐ QCDC (b/c);

- BTV Đảng ủy xã (b/c);   

- Lưu.                                                       

 

 

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN

CHỦ TỊCH

 

 

 

 

La Phước Thịnh

 

 

Huỳnh Đông
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 805.649
Truy cập hiện tại 22